Cập nhật lúc 08:22 23/11/2016 (GMT+7)
- Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
(PGVN)
Pháp môn này là con đường Trung đạo, theo đó Vô niệm được coi như là một phương pháp vượt thoát giữa những đối cực của cuộc sống. Chúng vượt qua khỏi mọi hệ thống tương đối có giá trị trên mặt nhân quả, để từ đó tạo cho hành giả một bước đi mới qua tùy duyên, không can hệ lệ thuộc vào các đối cực lưỡng biên tà kiến.
I. Từ Hoàng Mai đến Đông Sơn
Sau khi Lục tổ Đại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai, cho đến ngày đắc Giới tại Đông Sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Trong khoảng thời gian này, bài pháp đầu tiên để dạy người của Lục tổ Đại sư là bài pháp nảy sinh từ lòng trắc ẩn, và cái thế chẳng đặng đứng trước lòng ngoa ngụy của con người, vào lúc đó Lục tổ không thể chối từ được (vì trước đó Lục tổ đã được Ngũ tổ dặn dò trước khi ra khỏi Hoàng Mai, là không được vội vàng nói pháp cho bất cứ ai, vì sợ rằng Phật pháp khó hưng thịnh sau này).
Bài pháp đầu tiên này nói ra để độ cho kẻ đang muốn đoạt 'y bát' và ngay cả mạng sống của mình với bất cứ giá nào! Điều đó đã chứng tỏ được lòng vô úy và từ bi của người như thế nào rồi. Qua đây Huệ Minh đã nhìn lại được bản lai diện mục của chính mình qua việc: "Không nghĩ thiện không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Huệ Minh thượng tọa?"(Pháp Bảo Đàn).
Ngoài bài pháp đầu tiên dành cho thượng tọa Huệ Minh trên bước đường lẫn tránh vào Nam, và những bài pháp mà Lục tổ Đại sư đã phương tiện tùy nghi nói cho bọn thợ săn trong vòng mười lăm năm không ghi chép lại, còn có hai bài pháp nữa đó là bài "Tâm động" và "Pháp không hai." Đây là hai bài pháp mở đầu cho sự xuất hiện sau này của Lục tổ Đại sư khi ra dạy người, và cũng là hai bài pháp trực tiếp đưa đến việc đắc Giới tại Đông Sơn của người. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, phần cuối của phẩm Hành Do viết:
Một hôm Lục Tổ suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh mãi được, liền đi đến chùa Pháp Tính tại Quảng Châu, gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn.
Lúc bấy giờ, gió thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo rằng gió động, một vị tăng khác bảo là phướn động, tranh luận nhau mãi. Huệ Năng bước đến bảo rằng:
Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm hai nhân giả động đó! Cả chúng đều giật mình.
Ấn Tông mời lên chỗ cao ngồi và, gạn hỏi nghĩa lý sâu xa. Thấy lời đối đáp của Huệ Năng đơn giản, nhưng nghĩa lý lại chính xác, mà không theo văn tự cú pháp nào.
Tông nói:
- Hành giả nhất định không phải là người thường. Từ lâu đã nghe Y - pháp của Hoàng Mai truyền vào phương nam, chẳng phải là hành giả thì ai đây?
Huệ Năng nói:
- Chẳng dám!
Tông liền làm lễ, và xin cho đại chúng được xem Y - bát truyền lại.
Tông hỏi:
- Khi phó chúc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về "thấy tính" chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát gì cả.
Tông hỏi:
- Tại sao không luận về thiền định hay giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì hai pháp chẳng phải Phật pháp, mà Phật pháp là pháp không hai.
Tông lại hỏi:
- Sao gọi pháp không hai là Phật pháp?
Huệ Năng nói:
- Pháp sư giảng kinh Niết bàn đã làm rõ Phật tính, thì đó chính là pháp không hai của Phật pháp. Như Bồ tát Cao quý Đức vương bạch Phật:
- Người phạm vào cấm giới thuộc Bốn tội nặng, tạo Năm tội nghịch cùng bọn Nhất xiển đề thì Phật tính thiện căn của họ có bị đoạn mất không?
Phật dạy:
- Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường; còn Phật tính thì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường cho nên chẳng bị đoạn, đó gọi là không hai. Một là thiện hai là bất thiện, còn Phật tính chẳng phải thiện chẳng phải bất thiện, đó gọi là không hai. Uẩn và Giới phàm phu thấy hai, người trí liễu đạt tính của chúng không hai, tính không hai là Phật tính.
Ấn Tông nghe xong nói:
- Tôi giảng kinh như gạch ngói, còn nhân giả luận nghĩa như vàng ròng.
Nhân đây xuống tóc cho Huệ Năng và nguyện thờ làm thầy. Huệ Năng liền mở pháp môn Đông Sơn dưới cây Bồ đề."
Qua ba bài pháp này, ở đây thứ nhất thượng tọa Huệ Minh đã ngộ được cái chi ngay lúc "không nghĩ thiện không nghĩ ác"? Đây phải chăng là bài pháp báo hiệu mở đầu cho phương pháp dạy người sau này qua "Vô niệm" của người để qua đó nhận ra ngay cái bản lai diện mục của mỗi chúng ta trong cuộc sống. Đây là cách thể hiện Tông chỉ của Bồ Đề Đạt ma qua "Trực chỉ nhơn tâm kiến tính thành Phật" theo thể điệu và phương pháp thực tiễn của người Trung hoa đối với cuộc sống. Sự thể hiện này, được áp dụng ngay trong bài pháp thứ hai khi Lục tổ ra chùa Pháp Tính ở Quảng Châu nhân gặp hai vị Tăng đang tranh luận về "Gió động hay Phướn động." Một câu trả lời mới nghe ra như là đơn giản, nhưng đã đánh động làm chao đảo tận nguồn gốc tâm thức mọi người.
Ở đây, gió động hay phướn động? Tất cả đều là cảnh ngoài, chúng không có bất cứ giá trị thực hữu nào, vì chúng không can hệ gì đến chúng ta. Chúng chỉ có giá trị được khi tâm chúng ta khởi lên tác ý và, chúng được vọng tâm của chúng ta áp đặt lên chúng những giá trị mà chúng không bao giờ có. Do đó, chúng trở nên là thật có đối với một tâm hồn mê mờ mà thôi, trên thực tế chúng chỉ là những chiếc bóng không thật. Qua đây rõ ràng chúng ta đã tự đánh mất bổn tâm, đã tự vong thân chấp vào những pháp giả huyễn không thật có ở bên ngoài cho là thực hữu, và vì vậy cho nên có Gió động hay Phướn động.
Sự hiện hữu của Gió động hay Phướn động ở đây chỉ là cái bóng của vọng tâm (hữu tâm) áp đặt lên chúng chứ cũng chưa phải là vọng tâm (Cái tâm động (vọng tâm) này, thật ra ở đây chúng cũng chưa phải bộ mặt thật của Bản lai diện mục của chúng ta, mà chúng mới chỉ được coi như là phương pháp phương tiện dùng độc trị độc, chứ chưa phải là pháp Vô niệm vượt thoát trong pháp môn dạy người của Lục tổ). Vậy ngay đến cái vọng tâm chúng ta chưa nhận ra được chúng, huống chi là cái chân tâm của vọng (hữu tâm) làm sao chúng ta nhận ra được? Đó là chúng ta chỉ mới đề cập đến vọng và chân thuộc hữ - vô của hữu tâm mà thôi, chứ chưa nói đến cái Vô Tâm vượt ra ngoài cái hữu - vô của ngôn ngữ biểu tượng, mà Lục Tổ đã đề cập trong bài pháp thứ ba dạy người của Ngài qua pháp "Không hai" để nói lên pháp "Vô niệm" hay "Vô tâm" sau này của ngài.
Ở đây "tâm động" của hai vị tăng chính là cái hữu tâm của vọng tâm, thuộc về "Hữu" đối lập với "Vô" mà chính chúng ta không nhận ra, nên chúng đã bị bỏ qua và, bị quên lãng để rồi chúng chạy theo cái bóng của chính nó ở bên ngoài qua các duyên được biểu hiện tác dụng theo cái vị, và những tướng trạng sai biệt được biểu hiện ra bên ngoài mà thôi, trong khi các pháp tự chúng bình đẳng trong cái Tính qua pháp không hai tức là Phật tính.
Sự hiện hữu của Gió động hay Phướn động ở đây chỉ là cái bóng của vọng tâm (hữu tâm) áp đặt lên chúng chứ cũng chưa phải là vọng tâm (Cái tâm động (vọng tâm) này, thật ra ở đây chúng cũng chưa phải bộ mặt thật của Bản lai diện mục của chúng ta, mà chúng mới chỉ được coi như là phương pháp phương tiện dùng độc trị độc, chứ chưa phải là pháp Vô niệm vượt thoát trong pháp môn dạy người của Lục tổ). Vậy ngay đến cái vọng tâm chúng ta chưa nhận ra được chúng, huống chi là cái chân tâm của vọng (hữu tâm) làm sao chúng ta nhận ra được? Đó là chúng ta chỉ mới đề cập đến vọng và chân thuộc hữ - vô của hữu tâm mà thôi, chứ chưa nói đến cái Vô Tâm vượt ra ngoài cái hữu - vô của ngôn ngữ biểu tượng, mà Lục Tổ đã đề cập trong bài pháp thứ ba dạy người của Ngài qua pháp "Không hai" để nói lên pháp "Vô niệm" hay "Vô tâm" sau này của ngài.
Ở đây "tâm động" của hai vị tăng chính là cái hữu tâm của vọng tâm, thuộc về "Hữu" đối lập với "Vô" mà chính chúng ta không nhận ra, nên chúng đã bị bỏ qua và, bị quên lãng để rồi chúng chạy theo cái bóng của chính nó ở bên ngoài qua các duyên được biểu hiện tác dụng theo cái vị, và những tướng trạng sai biệt được biểu hiện ra bên ngoài mà thôi, trong khi các pháp tự chúng bình đẳng trong cái Tính qua pháp không hai tức là Phật tính.
Phật tính này, chúng xa lìa tất cả mọi quan niệm, mọi khái niệm, chúng không lệ thuộc vào pháp nhị nguyên nhân quả. Vì pháp nhân quả nhị nguyên chúng nói lên tính cách lệ thuộc trói buộc vào nhau, theo đó quả luôn luôn tùy thộc vào nhân mà hiện hữu. Sự hiện hữu này nói lên tính cách mất tự tại của các pháp đối với sự giải thoát mà chính đức đạo sư đã từng xiển dương. Do đó, tính không hai ở đây mang một ý nghĩa vượt thoát không còn lệ thuộc vào các pháp mặc dù chúng đang thể hiện cái dụng với nhau. Sự vượt thoát này chúng được sử dụng một cách tự tại vô ngại vào bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Tính không hai này cũng gọi là Phật tính. Phật tính này chúng ta cần phải thấy (kiến), như ngài đã dạy ở trên qua việc Hoàng Mai truyền dạy như thế nào khi Ấn Tông hỏi.
Ngài bảo: "Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về thấy tính, chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát" vì thiền định và giải thoát cũng chỉ là một mặt của pháp nhị nguyên nhân hay quả mà thôi. Ở đây, bất cứ pháp nào còn bị lệ thuộc vào cái khác đều không thể gọi là pháp không hai được, như thiện căn chẳng hạn, đức Phật dạy: Một là thường còn, hai là vô thường; còn ngược lại Phật tính chẳng lệ thuộc vào thường hay vô thường. Cái nào còn lệ thuộc vào cái khác, thì cái đó còn bị trói buộc dù là thường hằng hay đoạn diệt; ngược lại cái nào không còn bị lệ thuộc vào cái khác thì cái đó được gọi là tự tại giải thoát, là không hai, là Phật tính.
Ngài bảo: "Truyền dạy thì không, nhưng chỉ luận về thấy tính, chứ chẳng luận về thiền định hay giải thoát" vì thiền định và giải thoát cũng chỉ là một mặt của pháp nhị nguyên nhân hay quả mà thôi. Ở đây, bất cứ pháp nào còn bị lệ thuộc vào cái khác đều không thể gọi là pháp không hai được, như thiện căn chẳng hạn, đức Phật dạy: Một là thường còn, hai là vô thường; còn ngược lại Phật tính chẳng lệ thuộc vào thường hay vô thường. Cái nào còn lệ thuộc vào cái khác, thì cái đó còn bị trói buộc dù là thường hằng hay đoạn diệt; ngược lại cái nào không còn bị lệ thuộc vào cái khác thì cái đó được gọi là tự tại giải thoát, là không hai, là Phật tính.
Trên đây là ba bài pháp đầu tiên được ghi lại, sau khi Lục Tổ Đại sư đắc pháp tại Hoàng Mai cho đến lúc ngài đắc giới (thọ giới Tỳ kheo) tại Đông Sơn, ngoài ra còn những bài pháp tùy nghi khác, không được ghi lại trong vòng mười lăm năm cùng ở với bọn thợ săn mà chúng ta không được biết. Qua đây chúng báo hiệu cho chúng ta một phương pháp dạy người, nhằm vào cuộc sống thực tiễn của môn nhân mà ngài khai triển. Pháp môn này, trước hết ngài lập Vô - Niệm làm Tông, Vô - Tướng làm Thể, và Vô - Trụ làm Gốc như chín phẩm cuối trong kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi. Đó chính là giai đoạn từ Đông Sơn đến Tào Khê sau này đã được ngài thể hiện.
II. Từ Đông Sơn đến Tào Khê
Sự đắc giới của Lục tổ Đại sư tại Đông Sơn, là một cái duyên trực tiếp, để đưa đến việc truyền pháp Đốn giáo, mở đầu cho một khuynh hướng thực tiễn mang đậm màu sắc Trung Hoa sau này. Giờ đây, ngài đã trở thành vị tổ thứ sáu, Thiền phái Đốn Ngộ phương Nam, của hai phái Nam - Bắc vào lúc bấy giờ, và chúng đã trở thành một trở ngại cho những người đi sau, như chính trong phẩm thứ tám Đốn - Tiệm của PHÁP BẢO ĐÀN đã đề cập:
Lúc bấy giờ, cả hai tông đều thạnh hành, nên phân ra hai phái ‘Đốn - Tiệm’ khiến người học Đạo không biết theo đâu.
Thật ra pháp chỉ có một chứ không hai, nhưng vì căn cơ chúng sinh có chậm có nhanh, có sáng có tối, có thông minh có ngu si, nên pháp cũng tùy thuộc vào căn cơ đó mà có Đốn - Tiệm để phù hợp với kiến giải của mỗi người. Sự kiện này được thể hiện qua hai phương pháp tu hành hoàn toàn đối nghịch nhau, qua cuộc tiếp xúc giữa Lục tổ và người đệ tử thông minh nhiều trí của ngài Thần Tú là Chí Thành, là một đơn cử cụ thể cho hai pháp này:
"Sư bảo: Thầy nhà ngươi dạy chúng như thế nào?
Thưa: Thầy thường dạy chúng trụ tâm quán tĩnh, ngồi mãi không nằm.
Sư bảo: Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chẳng phải Thiền. Ngồi mãi bó thân, đối với lý chả có ích gì … Ta nghe nói thầy của nhà ngươi dạy Giới - Định - Tuệ cho mọi người, nhưng ta chưa rõ hành tướng của Giới - Định - Tuệ như thế nào? Nói cho ta nghe coi.
Thành thưa, Tú đại sư dạy rằng:
"Các điều ác không làm là Giới
Các điều lành vâng làm là Tuệ
Tự sạch tâm ý mình là Định."
Ngài dạy như vậy, không rõ Hòa thượng dùng pháp gì để dạy mọi người? …
Hãy nghe bài kệ của ta:
"Tâm địa không tà là Giới tự tính
Tâm địa không mê là Tuệ tự tính
Tâm địa không loạn là Định tự tính
Không thêm không bớt là Kim cương
Thân đến hay đi là Tam muội."
Chỉ cần qua hai bài kệ này, chúng ta cũng có thể xác định được phương pháp tu của hai vị Tổ sư này. Ở đây, một bên đứng trên mặt tướng mà lập cước, và mặt kia lại đứng trên tự tính mà thể hiện. Do đó, dù muốn dù không đi nữa, chúng ta không thể phủ nhận sự sai biệt trên lập trường về Giới - Định - Tuệ của hai ngài, mà qua đó chúng lệ thuộc vào căn cơ của người được tiếp độ. Chính Lục tổ dạy:
Giới - Định - Tuệ của thầy nhà ngươi dạy, chỉ để tiếp độ người Đại thừa, còn Giới - Định - Tuệ của ta dạy, là để tiếp độ những bậc Tối thượng thừa. Sở dĩ ngộ - giải không đồng, vì kiến giải có chậm có nhanh. Nhà ngươi thấy ta nói có giống thầy nhà ngươi không? Ta nói pháp không lìa tự tính. Nếu lìa bản thể mà nói pháp, tức chỉ nói đến hiện tướng, còn tự tính vẫn mê. Phải biết muôn pháp, tất cả đều tự tự tính mà khởi lên hiện tượng tác dụng, đó là pháp Giới - Định - Tuệ chân thật.
Đây chính là tư tưởng chỉ đạo mấu chốt, để đưa đến pháp dạy người qua "Vô niệm" của ngài. Tuy ngài đã từng bảo: "Nếu bảo rằng ta có pháp để trao cho người, thì ra ta nói dối với ngươi. Nhưng ta tùy theo chỗ trói buộc mà mở trói, tạm gọi là Tam muội." Tam muội ở đây, chính là pháp Vô niệm của Lục tổ. Từ tự tính khởi lên (Vô niệm) hiện tượng tác dụng để muôn pháp hiện hữu trong cái Tam muội Vô niệm ấy. Đây chính là sự thể hiện của tự tính qua thật tướng của muôn pháp, mà Vô niệm chính là con đường Trung đạo để hành giả thể hiện bước đi của mình. trong phẩm Định - Tuệ thứ tư, Lục tổ đã thể hiện con đường này qua Định - Tuệ, Sư dạy chúng:
Thiện tri thức! Pháp môn này của ta lấy Định - Tuệ làm gốc. Đại chúng chớ lầm bảo rằng Định - Tuệ khác nhau. Định - Tuệ cùng một thể chẳng phải hai. Định là Thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định. Khi có tuệ thì định ở trong tuệ, khi đã có định thì tuệ ở trong định. Nếu biết được nghĩa này thì Định - Tuệ cùng học.
Con đường này vượt qua khỏi con đường nhân quả của Giới - Định - Tuệ. Ở đây, không còn có việc ‘ nhân Giới sinh Định, nhân Định phát tuệ’ mà chúng được thể hiện qua định thức Duyên khởi "cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt." Đây là con đường của hiện khởi tùy duyên. Nơi nào có Giới thì nơi đó có Định - Tuệ, nơi nào có Định thì nơi đó có Giới - tuệ, nơi nào có Tuệ thì nơi đó có Giới - định. Sự hiện hữu của chúng cùng lúc bắt đầu và chung cuộc. Sự hiện hữu của chúng luôn luôn tùy thuộc tất yếu vào nhau, không có cái nào trước, cái nào sau cả.
Ở đây, chúng ta nếu muốn tìm hiểu, phân tích chúng, thì sẽ không đạt được những gì mà chúng ta muốn. Bởi vì chúng luôn luôn sống động và biến dịch theo duyên, do đó chúng ta bắt chúng dừng lại, rồi cắt xén chúng thành những mảnh vụn manh mún, trong cái dòng biến dịch sống động này, để định nghĩa tìm hiểu, thì những mảnh vụn bị chúng ta cắt ra đó, trước hết chúng là những sự kiện hiện thực chết, bất động, không hồn; sau nữa chúng không mang bất cứ một ý nghĩa nào của dòng sống, vì chúng đang bị cô lập, đang bị cắt xén, đang bị phân hủy. Chúng không còn là cái Đang - là của dòng biến dịch luôn luôn mới toanh này.
Cho dù chúng ta đứng trên một giả lập tương đối, mang tính phổ quát đối với thời gian, mà tìm hiểu hay phân tích đi chăng nữa, chúng đã được giả định tùy thuộc vào nhau trong một cái toàn thể nhất định như vấn đề: "Định là thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định" chẳng hạn, chứ không phải là cái riêng rẽ. Thật ra ở đây, vì đứng trên mặt tương đối của ngôn ngữ nên có sự liên hệ Duyên khởi của Thể và Dụng vậy thôi. Nhưng nếu đứng trên mặt toàn thể, thì chúng chỉ là một, không hai không khác. đây chính là sự liên hệ mấu chốt, làm cơ bản nền tảng cho pháp dạy người của Lục tổ Đại sư qua pháp môn "Vô niệm" của ngài.
Cho dù chúng ta đứng trên một giả lập tương đối, mang tính phổ quát đối với thời gian, mà tìm hiểu hay phân tích đi chăng nữa, chúng đã được giả định tùy thuộc vào nhau trong một cái toàn thể nhất định như vấn đề: "Định là thể của Tuệ, Tuệ là Dụng của Định" chẳng hạn, chứ không phải là cái riêng rẽ. Thật ra ở đây, vì đứng trên mặt tương đối của ngôn ngữ nên có sự liên hệ Duyên khởi của Thể và Dụng vậy thôi. Nhưng nếu đứng trên mặt toàn thể, thì chúng chỉ là một, không hai không khác. đây chính là sự liên hệ mấu chốt, làm cơ bản nền tảng cho pháp dạy người của Lục tổ Đại sư qua pháp môn "Vô niệm" của ngài.
"Thiện tri thức! Pháp môn này của ta từ trên xuống dưới, trước hết lập Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc."
Pháp môn này là con đường Trung đạo, theo đó Vô niệm được coi như là một phương pháp vượt thoát giữa những đối cực của cuộc sống. Chúng vượt qua khỏi mọi hệ thống tương đối có giá trị trên mặt nhân quả, để từ đó tạo cho hành giả một bước đi mới qua tùy duyên, không can hệ lệ thuộc vào các đối cực lưỡng biên tà kiến. Ở đây, chúng tôi hơi dài dòng một tí, là phải trích dẫn những gì mà chính ngài đã dạy về con đường Vô niệm Trung đạo này, mặc dù ngài có đề cập đến Vô tướng, Vô trụ. Nhưng điều này chúng chỉ làm sáng tỏ thêm sự thể hiện Vô niệm ở trong chúng, để tùy thuộc vào Thể - tướng - dụng mà qua đó chúng đã thể hiện theo duyên thôi.
"Vô tướng là ở trong niệm mà không niệm. Vô trụ nghĩa là bản tính của con người đối với những việc thiện ác, tốt xấu cho đến kẻ oán người thân ở thê gian; hoặc khi nói năng xúc phạm, khinh khi tranh chấp, đều coi như không, chẳng nghĩ đến việc trả thù hại người. Từng niệm không nghĩ đến những cảnh đã qua. Nếu niệm trước đến niệm này qua niệm sau, mà niệm nối tiếp nhau không dứt, đó gọi là trói buộc. Đối với các pháp, niệm - niệm không trói buộc, vì vậy nên lấy Vô trụ làm gốc là vậy.
"Thiện tri thức! Bên ngoài lìa tất cả tướng gọi là Vô tướng. Lìa khỏi tướng thì Thể pháp thanh tịnh, vì thế nên lấy Vô tướng làm Thể.
"Thiện tri thức! Đối với các cảnh, tâm không đắm nhiễm, thì gọi là Vô niệm …
"Thiện tri thức! Vì sao lập Vô niệm làm Tông? Vì người mê miệng chỉ biết nói thấy tính, nhưng đối với cảnh thì sinh vọng niệm. Từ vọng niệm khởi lên tà kiến, rồi từ đó tất cả những trần lao vọng tưởng sinh ra. Tự tính vốn không có một pháp nào để được. Nếu có đạt được thì đó cũng chỉ là thứ họa phước phịa nói mà thôi. Đó chính là trần lao tà kiến, cho nên pháp môn này lập Vô niệm làm Tông."
Qua pháp môn lấy Vô niệm làm Tông, Vô tướng làm Thể, Vô trụ làm Gốc, Lục tổ nói lên được tác dụng của Thể - Dụng nhiệm mầu của các pháp, mà ở đó chúng tùy theo duyên mà thể hiện. Từ đây mọi hiện tượng tác dụng đều khởi lên từ tự tính, do đó mọi hiện tượng đều mang vào chúng một toàn thể vô phân biệt, vô chấp. Những tác dụng ở đây tự tại, thông suốt, không bị trói buộc. Đây là hiệu quả tác dụng của con đường Trung đạo Vô niệm thể hiện. Con đường này đã được Lục tổ diễn tả như sau:
"Thiện tri thức! Vô là Vô cái gì? Niệm là niệm vật chi? Vô là không có hai tướng, không có những tâm trần lao. Niệm là niệm bổn tính chân như. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như. Tự tính chân như khởi niệm, chứ không phải mắt, tai, mũi, lưỡi khởi niệm. Vì chân như có tính nên khởi niệm, nếu chân như không có tính thì mắt, tai, màu sắc, âm thinh sẽ bị hoại tức khắc.
"Thiện tri thức! Khi tự tính chân như khởi niệm, thì sáu căn có thấy, nghe, hiểu biết, nhưng vẫn không nhiễm vào muôn cảnh. Vì tính chân như luôn luôn tự tại, nên kinh dạy: Thường khéo phân biệt các pháp, nhưng đối với Đệ nhất nghĩa vẫn bất động."
Hay trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ cũng đề cập đến vấn đề này. Để làm sáng tỏ và dễ hiểu hơn Lục tổ tự đặt vấn đề đối với Vô niệm và tự trả lời.
"Sao gọi là Vô niệm? Là thấy tất cả mọi pháp mà tâm không đắm nhiễm, thì đó gọi là Vô niệm. Nó diệu dụng khắp nơi, nhưng không dính mắc vào bất cứ chỗ nào. Chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức khi tiếp xúc với sáu trần qua sáu căn không bị tạp nhiễm, đến đi tự do, thể dụng không vướng mắc. Đó là Bát nhã tam muội tự tại giải thoát, cũng gọi là hạnh Vô niệm. Nếu trăm việc không nghĩ tới, thì sẽ khiến cho niệm mất. Như thế là pháp bị trói buộc buộc, gọi là thấy một bên."
Qua cách đặt vấn đề này, Lục tổ cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Vô niệm, mà ngài sợ rằng mọi người sẽ hiểu lầm về từ Vô niệm này. Vì đứng về mặt tích cực tác động hiện tượng, hình như chúng không có bất cứ một giá trị hết ngoài vấn đề phủ nhận. Nhưng đứng về mặt tiêu cực chúng đang hình thành một tác động vượt thoát, mà ở đó chúng đang tác động tối đa cho bước đi tự tại của mỗi chúng ta. Vô niệm ở đây hoàn toàn không có nghĩa là không nghĩ gì hết, mà ngược lại ở đây cái nghĩ luôn luôn vẫn hiện hữu, nhưng không chấp vào bất cứ đối tượng nào trong cũng như ngoài. Cái hiện hữu ở đây tùy duyên, nhưng không trụ vào duyên, vì vậy mà chúng trở thành tự tại trong dòng biến dịch của các pháp. Theo ngài nếu trăm việc không nghĩ tới thì khiến cho niệm mất, như vậy thì chúng rơi vào pháp trói buộc của đoạn diệt, cũng gọi là cái thấy một bên. Trong phẩm thứ hai Bát nhã, Lục tổ viết:
"Thiện tri thức! Nếu dùng trí tuệ quán chiếu thì sẽ thấu triệt rõ ràng trong ngoài, và tự biết bổn tâm. Khi đã biết bổn tâ thì đó là nền tảng của giải thoát. Nếu đã được giải thoát tức là đã đạt được Bát nhã tam muội, đó là Vô niệm."
Ở đây, theo Lục tổ thì Bát nhã tam muội chính là Vô niệm, là giải thoát, là mở trói. Từ đó cho chúng ta một cái nhìn căn để hơn về một nền tảng giải thoát, mà ở đó không có bất cứ một sai biệt nào giữa Giới - Định - Tuệ, khi con đường Trung đạo Vô niệm được thể hiện. Vì Giới - Định - Tuệ có được chỉ tùy thuộc vào giá trị nhân quả, trong khi Vô niệm không tùy thuộc vào bất cứ giá trị nhân quả nào. Cho dù trên mặt tướng trạng tạm phân biệt để đánh giá nó một cách tạ thời qua Thể - Tướng - Dụng đi nữa, thì sự đánh giá này vẫn tùy thuộc vào các duyên. Khi các pháp còn lệ thuộc vào nhau để hiện hữu, thì pháp này được giáng xuống hàng giá trị nhân quả trói buộc, chưa phải là giải thoát.
Tóm lại, con đường Vô niệm Trung đạo là con đường tóm thâu tất cả mọi con đường trong kinh Pháp Bảo Đàn, qua đó được phân chia thành mười chương. Trong mười chương này Lục tổ có đề cập đến nhiều vấn đề để khế hợp với từng căn cơ hành giả, nhưng trên thực tế chúng vẫn quy về một mối, đó là con đường Trung đạo Vô niệm vượt thoát, được thể hiện trong từng bước đi của mỗi môn nhơn đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
Đại Lãn
Nguồn phatgiao.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét